Giao diện Web Giao diện Mobile
   
Tin nóng Data Analyst|Business Information-HN|2|03/31/2022
Tin tức »

Thủy sản Việt đón “sóng” chính sách

DTCK | 8 giờ trước | 24/12/2025

Xuất khẩu 11 tháng năm 2025 tăng trưởng 14,6% so với cùng kỳ, đưa nhiều doanh nghiệp thủy sản băng băng về đích. Cộng với cú huých chính sách từ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, doanh nghiệp thủy sản được kỳ vọng bứt phá mạnh mẽ trong năm 2025 và nối dài đà tăng trưởng trong 2026.

 

Xuất khẩu dự kiến đạt kỷ lục mới

Một diễn biến có lợi cho doanh nghiệp ngành thủy sản gần đây là Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng vào ngày 11/12/2025 được xem là một bước tiến quan trọng, hỗ trợ ngành nông nghiệp nói chung và ngành thủy sản nói riêng. Điểm nhấn Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng (có hiệu lực từ ngày 1/1/2026) là cho phép doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã khi mua bán sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến, hoặc chỉ qua sơ chế thông thường không phải kê khai, nhưng được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.

Trao đổi với Báo Đầu tư Chứng khoán, đại diện Tập đoàn Sao Mai (mã ASM) cho biết, việc không phải kê khai thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng nông, thủy sản xuất khẩu là một chính sách kịp thời, có tác động tích cực và lâu dài đối với cộng đồng doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi giá trị.

Chính sách này giúp giảm áp lực dòng tiền và chi phí vốn cho doanh nghiệp. Trước đây, doanh nghiệp phải nộp thuế giá trị gia tăng đầu vào 5% và chờ hoàn thuế sau khi hoàn tất thủ tục xuất khẩu, trong khi quá trình hoàn thuế trên thực tế thường kéo dài, làm phát sinh chi phí tài chính và gia tăng nhu cầu vốn lưu động. Việc không phải kê khai thuế giá trị gia tăng đầu vào giúp doanh nghiệp giải phóng ngay một phần nguồn vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và cải thiện tính chủ động trong sản xuất - kinh doanh.

Bên cạnh đó, việc không phải kê khai thuế giá trị gia tăng đầu vào góp phần giảm chi phí cấu thành sản phẩm, tạo dư địa để doanh nghiệp điều chỉnh giá bán linh hoạt, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, đặc biệt tại các thị trường lớn và có tiêu chuẩn cao như EU, Mỹ, Nhật Bản.

Theo các chuyên gia, việc cho khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào phát sinh trong quá trình thu mua, chế biến giúp khơi thông hàng nghìn tỷ đồng vốn lưu động. Dòng vốn này sẽ chảy vào sản xuất, chế biến, đầu tư nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh, góp phần phát triển bền vững.

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) thông tin, lũy kế 11 tháng năm 2025, xuất khẩu thủy sản đạt hơn 10,5 tỷ USD, tăng 14,6% so với cùng kỳ. Trong đó, tôm đạt 4,31 tỷ USD (tăng 21,2%), tiếp tục là ngành hàng dẫn dắt tăng trưởng, cá tra đạt hơn 2 tỷ USD (tăng 9%), cá ngừ đạt 855,7 triệu USD, các nhóm nhuyễn thể, cá biển và sản phẩm giá trị gia tăng duy trì mức tăng hai chữ số.

Về thị trường, CPTPP chiếm tỷ trọng lớn nhất (27,2%) và tăng mạnh (24,3%); Trung Quốc - Hong Kong tăng 30,6%; EU tăng 11,9%, trong khi Mỹ đạt 1,78 tỷ USD, tăng 8,1% nhưng có dấu hiệu chậm lại trong quý IV.

Theo VASEP, bước sang tháng 12, xuất khẩu dự báo giảm nhẹ so với tháng 11, do yếu tố mùa vụ và tâm lý thận trọng của doanh nghiệp khi giao dịch với Mỹ. Nhiều doanh nghiệp tạm thời hạn chế ký mới các đơn hàng hải sản sang Mỹ cho đến khi các hướng dẫn chính thức về quy định mới được ban hành. Tuy nhiên, xuất khẩu tôm có thể vẫn giữ được mức tương đương tháng 11, hoặc chỉ giảm nhẹ nhờ nhu cầu ổn định tại Nhật Bản, EU và CPTPP.

“Dựa trên kết quả 11 tháng và triển vọng cuối năm, xuất khẩu thủy sản Việt Nam dự kiến lập kỷ lục mới năm 2025, đạt 11,2 - 11,3 tỷ USD, mức cao nhất từ trước đến nay. Trong đó, tôm dự kiến vượt 4,6 tỷ USD, trở thành ngành hàng thiết lập kỷ lục mới; cá tra ước đạt trên 2,1 tỷ USD nhờ nhu cầu phục hồi tại châu Á và Trung Quốc; cá ngừ được dự báo đạt trên 900 triệu USD, tiến gần mốc 1 tỷ USD”, VASEP cho hay.

Với kết quả tăng trưởng tích cực của năm 2025, ngành thủy sản Việt Nam tiếp tục củng cố vị thế cung ứng tại nhiều thị trường lớn. Tuy vậy, VASEP nhận định việc Mỹ siết chặt các yêu cầu nhập khẩu từ năm 2026 đặt ra thách thức không nhỏ. Các doanh nghiệp cần chuẩn bị kỹ lưỡng về minh bạch chuỗi cung ứng, tuân thủ tiêu chuẩn lao động, chống khai thác IUU và tăng tỷ trọng sản phẩm giá trị gia tăng nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường

Hiện nay, thị trường tiêu thụ thủy sản trong nước mới chiếm khoảng 1 tỷ USD, tương đương 10% giá trị xuất khẩu. Do vậy, triển vọng tăng trưởng của ngành thủy sản vẫn phụ thuộc lớn vào các thị trường xuất khẩu chủ lực, nơi đang chiếm tỷ trọng doanh thu cao và duy trì được mức tăng trưởng tổng thể hai chữ số.

Về tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp ngành thủy sản đang niêm yết, Công ty chứng khoán Agribank cho biết, 22 doanh nghiệp ngành thủy sản trên sàn có doanh thu 9 tháng năm 2025 đạt 58.600 tỷ đồng, tăng 24% so với cùng kỳ, lợi nhuận gộp đạt 7.769 tỷ đồng, tăng 68% so với cùng kỳ, lợi nhuận sau thuế đạt gần 3.300 tỷ đồng, tăng 243% so với cùng kỳ.

Xu hướng dịch chuyển cho tăng trưởng

Hiện một số doanh nghiệp thủy sản niêm yết đã công bố kết quả kinh doanh tháng 10, tháng 11 như Công ty cổ phần Thực phẩm Sao Ta (FMC) trong tháng 10/2025 doanh thu hợp nhất đạt 26,47 triệu USD, tăng 13,8% so với cùng kỳ; tôm thành phẩm tiêu thụ tăng 5%, đạt 2.153 tấn; nông sản thành phẩm tiêu thụ tăng 17%, đạt 142 tấn.

Xuất khẩu thủy sản có dấu hiệu chững lại trong quý IV/2025 với tác động của chính sách thuế đối ứng 20% của Mỹ. Tháng 11, FMC ghi nhận doanh thu hợp nhất đạt 16,16 triệu USD, giảm 12% so với cùng kỳ. Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn (mã VHC) mới công bố kết quả kinh doanh tháng 10/2025, với tổng doanh thu đạt 1.076 tỷ đồng, giảm 11% so với cùng kỳ. Các thị trường lớn của VHC là Mỹ, Trung Quốc, châu Âu và Việt Nam.

Dù có dấu hiệu chững lại, nhưng với tinh thần “ứng biến trong vạn biến”, các doanh nghiệp thủy sản vẫn tìm cách đa dạng hoá thị trường để tối ưu lợi nhuận.

Công ty Chứng khoán Agribank phân tích, trong nhóm xuất khẩu cá tra, phần lớn doanh nghiệp đều cải thiện biên lợi nhuận một cách rõ nét khi xu hướng giá tích cực hơn. VHC tiếp tục là doanh nghiệp có lợi nhuận lớn nhất cả ngành, trong khi Công ty cổ phần Nam Việt (mã ANV) đạt tăng trưởng cao nhờ hưởng lợi xu hướng xuất khẩu cá rô phi sang Mỹ sau thuế quan và nền cùng kỳ ở mức thấp. VHC đang dần dịch chuyển đơn hàng khỏi Trung Quốc để tới EU và các thị trường khác nhằm hạn chế ảnh hưởng bất lợi trực tiếp của thương chiến. ANV có sản phẩm cá rô phi xuất khẩu có năng lực cạnh tranh cao tại Mỹ và Brazil, thay thế Trung Quốc bị đánh thuế đối ứng 45-55%. ANV được kỳ vọng lạc quan bởi có nền tảng tăng trưởng vững chắc với vị thế dẫn đầu xuất khẩu cá rô phi vào Mỹ. Còn IDI duy trì xuất khẩu qua Trung Quốc và Mexico với triển vọng khả quan.

Với nhóm xuất khẩu tôm, tăng trưởng doanh số tương đối phân hóa, lợi nhuận có diễn biến tích cực, nhưng áp lực thuế tạo khó khăn đối với một vài doanh nghiệp có tỷ trọng xuất khẩu qua Mỹ cao. FMC có lợi nhuận vững chắc khi ngành tôm Việt đang thuận lợi.

Xu hướng xuất khẩu mới của ngành thủy sản Việt Nam sẽ xuất hiện hậu giai đoạn chính thức áp thuế đối ứng. Từ năm 2017 đến năm 2022, xu hướng hàng hóa Việt Nam gia tăng xuất khẩu qua Mỹ trở nên rõ nét, đặc biệt sau năm 2018. Hiện nay, xu hướng chuyển dịch đơn hàng rõ nét và linh hoạt, Vĩnh Hoàn đang giảm dần sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, đồng thời duy trì tốt tiêu thụ nội địa và mở rộng xuất khẩu sang EU cùng các thị trường khác. Trong khi ANV ghi nhận sự tăng trưởng tích cực có thể nhờ việc dịch chuyển đơn hàng qua Mỹ, từ đó thay thế thị phần mà Trung Quốc để lại trong phân khúc cá rô phi. Đây được kỳ vọng sẽ là tín hiệu tích cực đối với ngành cá da trơn xuất khẩu nói chung và giúp duy trì tăng trưởng của ngành trong năm tới (thủy sản Việt Nam chịu thuế đối ứng của Mỹ ở mức 20% và Trung Quốc là 45%, mức chênh lệch này mang lại lợi thế cạnh tranh).

Ngành tôm cạnh tranh xuất khẩu càng khó hơn khi áp thêm rào cản thuế quan. Giá bán tôm Việt Nam xuất khẩu luôn cao hơn so với tôm tới từ Ecuador, Ấn Độ hay Indonesia do tỷ lệ nuôi thành công vẫn đang còn thấp khiến giá vốn luôn ở mức cao. Điều này trực tiếp khiến tôm Việt Nam không có nhiều sức cạnh tranh so với các đối thủ cùng ngành, thụ động hơn trong việc lựa chọn thị trường. Các thị trường mà doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn thường phải có khả năng chấp nhận giá cao, đổi lại đòi hỏi về chất lượng tốt và phải ổn định.

Hải Minh

Tin khác »