Giao diện Web Giao diện Mobile
   
Tin nóng Data Analyst|Business Information-HN|2|03/31/2022
Tin tức »

Sau kỷ lục lập pháp, áp lực thực thi bắt đầu

TBKTSG | 16 giờ trước | 23/12/2025

Kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khóa XV khép lại cuối tuần trước với dấu ấn đặc biệt: sau 40 ngày làm việc, Quốc hội đã thông qua 51 luật và 39 nghị quyết - khối lượng lập pháp lớn chưa từng có trong một kỳ họp, chiếm gần 30% tổng số văn bản quy phạm pháp luật của cả nhiệm kỳ.

 

Lượng luật, nghị quyết đồ sộ được ban hành lần này trải rộng trên nhiều lĩnh vực then chốt như kinh tế, đầu tư, đất đai, môi trường, khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, an ninh quốc gia… Những văn bản này nếu được triển khai hiệu quả có thể tạo ra một khung khổ pháp lý mới, tháo gỡ nhiều điểm nghẽn tích tụ trong nhiều năm.

Cũng chính tại thời điểm Quốc hội “về đích”, một giai đoạn nhiều áp lực hơn mới thực sự bắt đầu. Trọng trách lúc này chuyển sang Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền địa phương, những chủ thể quyết định liệu các đạo luật, nghị quyết vừa được thông qua có đi vào cuộc sống hay chỉ ở “trên giấy”.

Chẳng hạn, Quốc hội đã quyết định điều chỉnh ngưỡng doanh thu chịu thuế đối với hộ kinh doanh lên mức trên 500 triệu đồng/năm, thay vì 200 triệu đồng như đề xuất ban đầu. Đây là bước tiếp thu ý kiến của cử tri và cộng đồng doanh nghiệp quan trọng, phản ánh đúng thực tế chi phí đầu vào tăng cao và biên lợi nhuận mỏng của nhiều hộ kinh doanh nhỏ.

Vấn đề then chốt giờ đây là triển khai thế nào để vừa thuận lợi cho hàng triệu hộ kinh doanh, vừa không tạo thêm gánh nặng cho cán bộ thuế cơ sở, lại vừa hạn chế thất thu ngân sách. Nếu cách làm vẫn dựa nhiều vào ước tính thủ công, thiếu dữ liệu số, nguy cơ phát sinh khiếu nại, tranh chấp và chi phí không chính thức là điều khó tránh.

Ngược lại, nếu nghị định và thông tư hướng dẫn tận dụng tốt dữ liệu hóa đơn điện tử, thiết kế quy trình khai, nộp thuế đơn giản, minh bạch, thì chính sách này có thể trở thành bước đệm để hộ kinh doanh từng bước chuyển sang khu vực kinh tế chính thức.

Một chính sách quan trọng khác là Nhà nước sẽ đứng ra thu hồi đất đối với dự án đã thỏa thuận trên 75% diện tích đất và trên 75% số lượng người sử dụng đất. Đây là nỗ lực tháo gỡ điểm nghẽn giải phóng mặt bằng, nguyên nhân khiến nhiều dự án đầu tư công và tư nhân kéo dài nhiều năm. Nhưng ranh giới giữa “đồng thuận xã hội” và “khiếu kiện kéo dài” lại phụ thuộc rất lớn vào cách thiết kế văn bản hướng dẫn.

Nếu tiêu chí xác định đồng thuận không rõ ràng, quy trình lấy ý kiến thiếu minh bạch, hoặc phương án bồi thường, tái định cư không được công bố đầy đủ ngay từ đầu, quy định này rất dễ trở thành nguồn phát sinh xung đột mới. Ngược lại, nếu nghị định làm rõ quy trình, trách nhiệm giải trình và cơ chế giám sát độc lập, thì quy định 75% đồng thuận có thể trở thành công cụ pháp lý quan trọng để đẩy nhanh tiến độ dự án mà vẫn giữ được ổn định xã hội.

Những ví dụ này cho thấy, chất lượng của văn bản dưới luật quyết định trực tiếp hiệu quả chính sách, thậm chí quyết định niềm tin của người dân và doanh nghiệp vào cải cách thể chế. Vì vậy, ở giai đoạn hậu kỳ họp này, Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương phải gánh vác hai nhiệm vụ lớn, mang tính quyết định đối với hiệu quả chính sách.

Đầu tiên là hoàn thiện hệ thống văn bản quy định chi tiết với yêu cầu đặt ra: nhanh, nhưng phải bảo đảm chất lượng.

Theo tinh thần Nghị quyết 66-NQ/TW của Bộ Chính trị, tư duy xây dựng pháp luật đang chuyển mạnh sang mô hình luật khung, luật nguyên tắc, trao dư địa lớn hơn cho Chính phủ và bộ, ngành trong cụ thể hóa chính sách. Cách tiếp cận này nhằm tăng tính linh hoạt trong điều hành của Chính phủ, tránh tình trạng luật vừa ban hành đã lạc hậu. Kéo theo đó, số lượng nghị định, thông tư cần ban hành là rất lớn.

Nếu ví luật là đường ray, thì nghị định và thông tư chính là các thanh tà vẹt và con ốc kỹ thuật giúp “đoàn tàu chính sách” vận hành trơn tru. Chỉ một mắt xích lỏng lẻo, cả hệ thống có thể trục trặc. Áp lực lớn nhất lúc này là thời gian: nhiều luật có hiệu lực ngay từ năm tới, buộc bộ máy hành chính phải tăng tốc hoàn thành nhiệm vụ.

Dù thời gian gấp gáp, chất lượng văn bản hướng dẫn là điều không thể đánh đổi. Văn bản dưới luật cần mạch lạc, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện, đặc biệt phải tránh tái diễn tình trạng “giấy phép con” hay thủ tục ẩn dưới dạng điều kiện kỹ thuật. Những quy định thiếu minh bạch không chỉ gây khó cho doanh nghiệp và người dân, mà còn làm tăng rủi ro tùy tiện trong thực thi ở cấp cơ sở.

Bên cạnh đó, các quy định chuyển tiếp phải được thiết kế cẩn trọng. Với những luật sửa đổi sâu như luật về đất đai, nhà ở, đầu tư…, nếu thiếu hướng dẫn chuyển tiếp rõ ràng, doanh nghiệp và chính quyền địa phương có thể rơi vào trạng thái “chờ”, dự án đình trệ, quyết định bị treo. Khoảng trống pháp lý, dù chỉ tồn tại ngắn hạn, cũng có thể tạo ra chi phí cơ hội rất lớn cho nền kinh tế.

Nhiệm vụ lớn thứ hai là truyền thông và phổ biến chính sách một cách chủ động, kịp thời và dễ hiểu. Một đạo luật, dù được thiết kế tốt đến đâu, cũng khó phát huy tác dụng nếu người thực thi - từ cán bộ địa phương đến doanh nghiệp và người dân, không nắm được tinh thần và nội dung cốt lõi. Không chỉ giúp luật đi vào cuộc sống nhanh hơn, truyền thông tốt còn giúp giảm rủi ro vi phạm do thiếu hiểu biết, qua đó tiết kiệm chi phí cho cả xã hội.

Đây vẫn là khâu yếu trong tổ chức thực thi pháp luật những năm qua. Luật ban hành nhanh nhưng chậm được giải thích; hoặc chỉ phổ biến trong phạm vi hẹp; hoặc cách truyền đạt nặng tính kỹ thuật, khó tiếp cận. Trong bối cảnh hàng loạt luật mới tác động sâu rộng đến đất đai, nhà ở, kinh doanh, môi trường, chuyển đổi số…, truyền thông chính sách cần được coi là nhiệm vụ song hành với xây dựng văn bản hướng dẫn.

Hình thức truyền thông cũng cần đổi mới: tóm tắt thay đổi chính sách bằng infographic; giải thích quy định bằng video ngắn; tổ chức đối thoại với doanh nghiệp; tập huấn cho chính quyền cơ sở trên nền tảng số; và xây dựng các cẩm nang thực thi đơn giản, dễ tra cứu.

Đặc biệt, giai đoạn này đòi hỏi sự chủ động cao hơn từ phía doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa - nhóm chịu tác động trực tiếp nhưng thường yếu thế trong tiếp cận thông tin chính sách. Thay vì chờ văn bản ban hành rồi mới “thích ứng”, doanh nghiệp cần bám sát tiến trình xây dựng nghị định, thông tư: theo dõi dự thảo, tham gia góp ý, phản ánh những vướng mắc thực tiễn. Việc này không chỉ giúp doanh nghiệp chuẩn bị sớm kế hoạch kinh doanh, mà còn góp phần nâng cao chất lượng chính sách, hạn chế rủi ro cài cắm lợi ích hay quy định thiếu khả thi.

Kỳ họp thứ 10 khép lại, hành trình đưa chính sách từ nghị trường ra đời sống bắt đầu. Đây là lúc Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương chứng tỏ năng lực thực thi. Đồng thời, đây cũng là thời điểm doanh nghiệp và người dân tham gia sâu hơn vào quá trình hoàn thiện chính sách để cải cách thể chế không chỉ là việc của Nhà nước, mà là nỗ lực chung của cả xã hội.

An Nhiên

Tin khác »